Trung Quốc cũng là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ tới Thơ Đường với hàng trăm tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao nhắc đến thơ Trung Quốc là phải nói đến thơ đời Đường, hôm nay hãy cùng Trung tâm tiếng Trung THANHMAIHSK tìm hiểu về cũng như học tiếng Trung qua bài thơ này nhé!
Tìm hiểu chung về triều đại nhà Đường và thơ Đường
Nhà Đường ( 唐朝: táng cháo, Hán Việt: Đường triều) (18 tháng 6, 618 – 1 tháng 6, 907) là một trong những triều đại huy hoàng của lịch sử Trung Quốc. Triều Đường tiếp nối sau nhà Tùy và trước thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc.
Nhà Đường được Đường Cao Tổ – Lý Uyên thành lập sau khi thâu tóm quyền hành khi nhà Tùy suy yếu rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn 15 năm khi nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra nhà Võ Chu (8 tháng 10, 690 – 3 tháng 3, 705). Sau đó lại được tiếp tục cho đến năm 907 thì hoàn toàn suy tàn.
Nhà Đường với kinh đô Trường An (là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là Tây An) được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa. Thời kỳ nhà Đường phần lớn là một giai đoạn tiến bộ, ổn định, kinh tế phát triển, xã hội phồn vinh, giao thông thuận lợi. Nhưng vào giữa triều đại thì xảy ra loạn An Sử, từ đó nhà Đường ngày càng đi xuống.
Nhắc đến nhà Đường nhất định phải kể đến văn chương. Thời đó Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo cùng tồn tại. Lại thêm từ tháng 11 năm 754 đến tháng 3 năm 763 loạn An Sử bùng nổ, trong 9 năm dài đằng đẵng đó đã khiến dân số nhà Đường giảm từ 8 ngàn vạn người xuống còn 1 ngàn 7 trăm vạn hơn. Chính cảnh biệt ly, nhà tan cửa nát đấy đã tạo nên vô số đề tài cho thơ ca. Ngoài ra thời nhà Đường các vị vua đều yêu thích thơ văn cũng đã thúc đẩy cho hoạt động tặng thơ tặng văn của thời nhà Đường.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuyển tiếp sớm ở thời nhà Tùy, Tùy Dạng Đế và Tùy Văn Đế chủ trương cải cách thơ ca. Bước tiến mới này đã đặt nền móng cho sự phát triển của thơ ca thời nhà Đường và cũng chính nhà Tùy là bước chuyển tiếp sang một giai đoạn mới của thơ ca Đường.
Từ đó, đây được coi là thời kì hoàng kim của thơ ca, biến Trung Quốc thành quốc đô của thơ ca.
4 giai đoạn lịch sử cùng các nhà thơ nổi tiếng đời Đường
- Sơ Đường:(618-712): Tứ Kiệt, Vương Bột, Trần Tử Ngang, Dương Đồng, Lạc Tân Vương.
- Thịnh Đường: (713-770): Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên.
- Trung Đường: (771-835): Bạch Cư Dị, Mạnh Dao, Lưu Vũ Tích.
- Vãn Đường: (836-907): Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn.
1. Lý Bạch
Lý Bạch (李白: lǐbái) (701 – 762), tự Thái Bạch (太白: tài bái), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士: qīng lián jūshì), ông sinh ra tại Lũng Tây, Cam Túc. Lý Bạch là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp.
Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa.
Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên(诗仙: shī xiān) hay Thi Hiệp (诗侠: shī xiá). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙: jiǔxiān) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人: zhé xiānrén). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上谪仙: tiānshàng zhé xiān).
Ở Việt Nam, Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch được đưa vào sách giáo khoa trở thành bài giảng cho học sinh.
2. Đỗ Phủ
Đỗ Phủ ( 杜甫: dùfǔ ) (712 – 770), tự Tử Mĩ (子美: zi měi), hiệu Thiếu Lăng dã lão (少陵野老: shǎo líng yělǎo ), Đỗ Lăng dã khách (杜陵野客: dù líng yě kè) hay Đỗ Lăng bố y (杜陵布衣: dù líng bùyī ), ông là người Tương Dương, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kỳ nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử (诗史: shīshǐ) và Thi Thánh (诗圣: shī shèng).
Trong suốt cuộc đời của mình, ông muốn vì dân vì nước nhưng ông đã không thực hiện được điều này vì Loạn An Lộc Sơn năm 755. 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian biến động, có một thời gian ngắn ông làm quan nhưng gần như suốt cuộc đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật. Có tin đồn ông mất trên một con thuyền nát ngoài xa.
Ông thường cùng Lý Bạch được gọi là Lý Đỗ (李杜: lǐ dù). Về sau, có Lý Thương Ẩn cùng Đỗ Mục trứ danh thời Vãn Đường, được gọi là Tiểu Lý Đỗ (小李杜: xiǎo lǐ dù) để phân biệt. Từ thời nhà Thanh, Đỗ Phủ được gọi là Lão Đỗ (老杜: lǎo dù) để phân biệt với Đỗ Mục. Ngoài ra cặp Lý Bạch-Đỗ Phủ được gọi là Đại Lý Đỗ (大李杜: dà lǐ dù).
3. Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị (白居易: báijūyì) (772 – 846), biểu tự Lạc Thiên (乐天: lètiān), hiệu Hương Sơn cư sĩ (香山居士: xiāngshān jūshì), Túy ngâm tiên sinh (醉吟先生: zuì yín xiānshēng ) hay Quảng Đại giáo hóa chủ (广大教化主: guǎngdà jiàohuà zhǔ), ông người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Bạch Cư Dị là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ.
Thơ của ông có sức ảnh hưởng lớn không chỉ tuyên truyền trong dân gian mà còn lan sang ngoại quốc như Tân La, Nhật Bản.
Tác phẩm lớn nhất của ông phải kể đến Trường hận ca, Tỳ bà hành, Tần trung ngâm,.. và Dữ nguyên cửu thư.
Tài liệu được tham khảo tại: Wikipedia Việt Nam
Học tiếng Trung qua bài thơ nổi tiếng đời Đường
1. Tư Quy – Vương Bột: 思归: /sī guī/
Bản gốc:
思归
sī guī
长江悲已滞,
chángjiāng bēi yǐ zhì,
万里念将归。
wànlǐ niàn jiāng guī.
况属高风晚,
kuàng shǔ gāo fēng wǎn,
山山黄叶飞。
shān shān huángyèfēi.
Dịch âm Hán Việt:
Tư quy
Trường Giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống thuộc cao phong vãn,
Sơn sơn hoàng diệp phi.
Dịch nghĩa:
Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang,
Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về.
Huống hồ đương lúc cuối thu,
Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp.
2. Tĩnh Dạ Tứ – Lý Bạch: 静夜思 /jìng yè sī/
Bản gốc:
床前明月光,疑是地上霜.
chuáng qián míng yuè guāng, yí shì dì shàng shuāng.
举头望明月,低头思故乡.
jǔ tóu wàng míng yuè, dī tóu sī gù xiāng.
Dịch âm Hán Việt:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch thơ (Tương Như):
Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.
3. Xuân Vọng – Đỗ Phủ:春望: /chūn wàng/
Bản gốc:
春望
chūn wàng
国破山河在,
guó pò shānhé zài,
城春草木深。
chéng chūn cǎomù shēn.
感时花溅泪,
gǎn shí huā jiàn lèi,
恨别鸟惊心。
hèn bié niǎo jīng xīn.
烽火连三月,
fēnghuǒ lián sān yuè,
家书抵万金。
jiāshū dǐ wàn jīn.
白头搔更短,
báitóu sāo gèng duǎn,
浑欲不胜簪。
hún yù bùshèng zān.
Dịch âm Hán Việt:
Xuân vọng
Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hỏa liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thắng trâm.
Dịch thơ Trần Trọng Kim:
Nước phá tan, núi sông còn đó,
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu.
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng.
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt,
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn.
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun,
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.
Dịch thơ Trương Văn Tú (Lãng Nhai):
Nước mất nhà tan còn sông núi,
Xuân thành cây cỏ mọc thâm u.
Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ,
Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly.
Khói lửa binh đao liền ba tháng,
Thư nhà nhận được đáng vạn ngân.
Tóc bạc như sương càng thưa thớt,
Học tiếng Trung qua bài thơ tiêu biểu khác
1. Quan thư (thuộc Thư Kinh- bộ thơ ca đầu tiên của Trung Quốc) : 关雎 : /guān jū/
Bản gốc:
关雎
guān jū
关关雎鸠、
guān guān jū jiū,
在河之洲。
zài hé zhī zhōu.
窈窕淑女、
yǎotiǎo shūnǚ,
君子好逑。
jūnzǐ hǎo qiú.
Dịch âm Hán Việt:
Quan thư
Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.
Dịch nghĩa:
Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan,
Ở trên cồn bên sông.
Người thục nữ u nhàn,
Phải là lứa tốt của bậc quân tử (vua).
2. Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu: 黄鹤楼/ huáng hè lóu/
Bản gốc:
昔人已乘黄鹤去,
xī rén yǐ chéng huáng hè qù,
此地空余黄鹤楼.
cǐ dì kōng yú huáng hè lóu .
黄鹤一去不复返,
huáng hè yī qù bù fù fǎn,
白云千载空悠悠.
bái yún qiān zài kōng yōu yōu .
晴川历历汉阳树,
qíng chuān lì lì hàn yáng shù,
芳草萋萋鹦鹉洲.
fāng cǎo qī qī yīng wǔ zhōu .
日暮乡关何处是,
rì mù xiāng guān hé chǔ shì,
烟波江上使人愁
yān bō jiāng shàng shǐ rén chóu
Dịch âm Hán Việt:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch thơ Tản Đà:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
3. Nguyệt Dạ – Đỗ Phủ: 月夜 /yuè yè/
Bản gốc:
今夜鄜州月,
jīn yè fū zhōu yuè,
闺中只独看.
guī zhōng zhǐ dú kàn .
遥怜小儿女,
yáo lián xiǎo ér nǚ,
未解忆长安.
wèi jiě yì cháng ān .
香雾云鬟湿,
xiāng wù yún huán shī,
清辉玉臂寒.
qīng huī yù bì hán .
何时倚虚幌,
hé shí yǐ xū huǎng,
双照泪痕干.
shuāng zhào lèi hén gān .
Dịch Âm Hán Việt:
Kim dạ Phu Châu nguyệt,
Khuê trung chỉ độc khan.
Dao liên tiểu nhi nữ,
Vị giải ức Trường An.
Hương vụ vân hoàn thấp,
Thanh huy ngọc tý hàn.
Hà thì ỷ hư hoảng,
Song chiếu lệ ngân can?
Dịch thơ Tản Đà:
Châu Phu này lúc trăng soi,
Buồng the đêm vắng riêng coi một mình.
Đoái thương thơ dại đầu xanh,
Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau.
Sương sa thơm ướt mái đầu,
Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong.
Bao giờ tựa bức màn không,
Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô.
Người ta thường nói, muốn hiểu hết 1 ngôn ngữ cần hiểu cả 1 quốc gia lẫn văn hóa của ngôn ngữ đó. Thơ ca cũng là một phần trong văn hóa. Hy vọng bài viết này của Tiếng trung THANHMAIHSK đã giúp bạn có thêm nhiều góc nhìn về thơ ca Trung Quốc. Hãy vận dụng vào quá trình học tiếng Trung nha!
THAM KHẢO THÊM